XOẮN DẠ DÀY

XOẮN DẠ DÀY Ở TRẺ EM

I. ĐẠI CƯƠNG

Xoắn dạ dày là hiện tượng quay bất thường của một phần dạ dày quanh một phần khác. Đây là bệnh lý hiếm gặp và khó chẩn đoán.

Khoảng 52% trẻ bị xoắn dạ dày dưới 12 tháng, trong đó trẻ sơ sinh chiếm khoảng 21% trường hợp.

Xoắn dạ dày là do bất thường các dây chằng cố định dạ dày (hình 1). Xoắn dạ dày có thể gặp ở trẻ bị thoát vị hoành hay thoát vị qua khe thực quản.

Hình 1: Các dây chằng cố định dạ dày

II. LỊCH​ SỬ

​Xoắn dạ dầy do bất thường về giải phẫu được Berti báo cáo lần đầu tiên năm 1866. Năm 1887, Berg báo cáo trường hợp đầu tiên điều trị thành công. Năm 1904, Borchardt mô tả tam chứng kinh điển để chẩn đoán bệnh.

III. TRIỆU CHỨNG

Ở trẻ lớn và người lớn, biểu hiện của xoắn dạ dày là 3 triệu chứng kinh điển: nôn khan, trướng vùng thượng vị và  không đặt được ống thông dạ dày.

Ở trẻ nhũ nhi, trớ và nôn ói là những triệu chứng thường gặp, có thể nôn ra dịch vàng hay dịch trong tùy theo vị trí bị tắc. Đôi khi có thể nôn ra máu. Ngoài ra, chậm tăng trưởng hay nhiễm trùng đường hô hấp cũng là những biểu hiện của bệnh này.

IV. CHẨN ĐOÁN

Xoắn dạ dày được chẩn đoán bằng X quang có và không bơm thuốc cản quang.

Trên phim X quang không bơm thuốc cản quang có thể thấy hình ảnh bóng hơi dạ dày hình cầu hoặc nằm ngang với 1 mức khí dịch hay hai mức khí–dịch, vắng hơi trong ruột.

Trên phim X quang có bơm thuốc cản quang có thể thấy hình ảnh mỏ chim, chỗ nối thực quản và dạ dày nằm thấp hơn bình thường.

 

V. ĐIỀU TRỊ

Điều trị xoắn dạ dày là phẫu thuật cấp cứu

1. Chuẩn bị trước mổ

Đặt thông dạ dày hút liên tục

Truyền dịch bù nước-điện giải

Làm xét nghiệm huyết đồ, đông cầm máu, nhóm máu, chức năng gan thận, ion đồ máu

2. Phẫu thuật

Tháo xoắn dạ dày.

Cố định dạ dày vào thành bụng trước: phẫu thuật này có thể thực hiện bằng ngả nội soi hay hở.

Mở dạ dày ra da: thực hiện ở trẻ sơ sinh nhằm 2 mục đích là cố định dạ dày vào thành bụng và nuôi ăn

3. Chăm sóc sau mổ

Nuôi ăn tĩnh mạch

Kháng sinh

Thay băng vết mổ

Cho ăn lại khi dịch dạ dày ra trong

Xuất viện khi bệnh nhân ăn lại được và vết mổ lành.

VI.Tái khám:

Một tuần , 3 tháng , 6 tháng sau mổ. Tái khám ngay nếu có triệu chứng giống lần đầu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Thanh Liêm (2000) "Xoắn dạ dày". Phẫu thuật tiêu hóa trẻ em, Nhà xuất bản Y Học, tr. 76-79.

Mortell  Alan E. (2011) "Gastric Volvulus". Newborn Surgery, (3), pp. 444-449.

Randolph Kyle Cribbsa, Kenneth William Gow, Mark Lewis Wulkan ( 2008). “Gastric Volvulus in Infants and Children”. Pediatrics ,122,pp.752–762